Năm 2020 Việt Nam thừa 70.000 giáo viên
Ngày 17/5, Hội thảo khoa học "đào tạo giáo viên tại các trường đại học đa ngành đáp ứng yêu cầu đối mới giáo dục hiện nay" được tổ chức tại Đại học Thủ đô Hà Nội.
PGS Bùi Văn Quân (Hiệu trưởng Đại học Thủ đô Hà Nội) cho biết, dự kiến đến năm 2018 số sinh viên sư phạm ra trường mỗi năm bậc tiểu học là 19.200, THCS là 18.700 và THPT là 23.000.
"Cho dù tăng số học sinh trên giáo viên bình quân lên tương đương các nước công nghiệp phát triển, thì tại thời điểm năm 2020 hệ thống cũng không thể tuyển dụng hết số giáo viên mới tốt nghiệp ra trường, vẫn thừa khoảng 41.000 đối với tiểu học, 12.200 với THCS và 16.900 với THPT", PGS Quân nhận định.
PGS Bùi Văn Quân, Hiệu trưởng Đại học Thủ đô Hà Nội. |
Theo thống kê, hiện nay trừ tỉnh Đắk Nông, thì trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố đều có ít nhất một cơ sở đào tạo giáo viên. Miền núi và trung du phía Bắc có 19 cơ sở; đồng bằng Sông Hồng có 26; Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ có 23; Tây Nguyên 8; Đông Nam Bộ có 18 và đồng bằng Sông Cửu Long có 14 cơ sở đào tạo giáo viên.
Theo ông Quân, hệ thống đào tạo giáo viên đang bộc lộ những hạn chế cơ bản như: Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu; Mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phát triển trong tình trạng thiếu ổn định do nhiều trường cao đẳng sư phạm yếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên được nâng cấp lên đại học, hoặc đổi tên để mở rộng tuyển sinh đào tạo trình độ đại học các ngành sư phạm, ngoài sư phạm; Mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên chưa có sự phân tầng.
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo giáo viên chưa gắn kết chặt chẽ với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, chưa chú ý đúng mức đến các điều kiện đảm bảo chất lượng nên phát triển thiếu bền vững, năng lực cạnh tranh thấp. Hầu hết các trường lại tập trung đào tạo mới và nâng cao trình độ, chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động đào tạo lại. Các quy định về tiêu chuẩn, quy trình, chuẩn mực quản lý hoạt động đào tạo, cũng như công cụ và cơ chế kiểm soát chất lượng đào tạo sư phạm còn nhiều bất cập.
Còn Thạc sĩ Trần Thị Huệ (Đại học Thủ đô Hà Nội) và Thạc sĩ Ariel Cegla, Trung tâm Đào tạo Quốc tế A. Ofri, Israel thì cho biết, ở Israel, sinh viên sư phạm chỉ học mỗi tuần ba ngày tại trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, hai ngày còn lại đi thực tế sư phạm tại trường phổ thông suốt từ tuần thứ hai của năm nhất đến hết ba năm học đầu tiên. Mỗi năm học, hai tuần không có giờ học ở trường thì sinh viên dành toàn thời gian đi thực tế.
Thực tế sư phạm tại Israel và thực tập sư phạm tại Việt Nam cũng khác nhau rất lớn. Ở Israel, sinh viên sư phạm đi thực tế tối thiểu 9 tín chỉ, trung bình chiếm 15 tín chỉ (15.6%) trong tổng số 90-96 tín chỉ. Ở Đại học Thủ đô Hà Nội, sinh viên thực tập 12 tuần, chiếm 5/95 tín chỉ (5.3%). Đại học Sư phạm Thái Nguyên thực tập 10 tuần chiếm 5/135 tín chỉ (3.7%)...
Hai vị thạc sĩ kiến nghị cần tăng thời gian thực tập sư phạm cho sinh viên Việt Nam; giảng viên đại học, cao đẳng cần trao đổi về mặt chuyên môn với giáo viên trường phổ thông để hai bên cùng nắm được lý thuyết về phương pháp dạy học mới cũng như thực tế dạy học tại trường phổ thông.
PGS Bùi Văn Quân thì cho rằng, thời gian tới cần thiết kế cơ cấu các cơ sở đào tạo giáo viên dựa trên dự báo nhân lực giáo dục; cơ cấu mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải tính đến cả tình huống “khủng hoảng thiếu giáo viên” và đảm bảo đáp ứng nhu cầu cơ cấu giáo viên về trình độ đào tạo; thiết kế cơ cấu mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải chú ý đến tính đa dạng về mô hình, phương thức đào tạo.
"Các cơ sở đào tạo giáo viên phải là các cơ sở giáo dục khởi xướng, đi tiên phong cho những đổi mới của giáo dục mầm non và phổ thông. Quy trình đào tạo giáo viên phải được thiết kế, tổ chức gắn chặt với thực tiễn đời sống học đường, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa đào tạo và bồi dưỡng theo quan điểm phát triển liên tục ", ông Quân nói.
(Theo VnExpress.vn)